Sự tích đức Phật Di Lặc
Nói về đức Phật Di Lặc
chắc rằng đại đa số quí vị đều nhớ đến hình tượng của một ông Phật ngồi
phạch ngực, mập, bụng to và miệng cười toe toét. Có khi quí vị thấy bên
cạnh Ngài có 6 đứa con nít, đứa thì móc lỗ tai, đứa thì móc miệng, đứa
thì thọc lét v.v… Những hình tượng đó như là một trò đùa. Mình không
biết tại sao lại có chuyện đùa ở trong chùa như vậy. Đó là ý nghĩa chúng
ta cần phải biết. Nói đến đức Di-lặc chúng tôi phải khảo lịch sử từ Ấn
Độ sang Trung Hoa để quí vị khỏi lầm lẫn. Nhiều tà thuyết bây giờ dựng
đức Phật Di-lặc làm chỗ tiêu chuẩn để họ lôi cuốn Phật tử. Đức Phật Di Lặc là tên dịch của thuở xưa. Sau này có dịch ra nhiều tên khác nhưng vì chúng ta đã quen kêu là đức Phật Di Lặc.
Chữ Di Lặc là
phiên âm tiếng Phạn, Tàu dịch là Từ Thị (Thị là họ, Từ là từ bi). Có
thuyết nói rằng khi bà mẹ của Ngài mang thai Ngài, khởi lòng thương
không nỡ giết hại chúng sanh và không ăn thịt cá được cho nên nói là
“Từ”. Vì Ngài sanh nơi bà mẹ đó cho nên gọi là Từ Thị. Nhưng có thuyết
lại nói khác hơn. Vì thuở xưa Ngài tu về từ bi tam-muội cho nên sau này
có tên là Từ Thị. Nhưng tên Ngài là A-dật-đa cũng là tiếng Phạn dịch âm.
Dịch theo chữ Tàu là Vô Nan Thắng (Vô là không, Nan là khó) tức là
không có thể nào hơn được. Đối với Ngài về trí tuệ và hạnh tu ít người
hơn được, nên có tên Vô Nan Thắng. Đó là nói về đức Phật theo thói quen
của chúng ta. Nếu nói theo kinh thì gọi là Bồ tát Di Lặc. Hồi đức Phật
còn tại thế, Bồ tát Di Lặc là một người có lịch sử sanh ở miền Nam Thiên
Trúc, ở trong dòng Bà-la-môn. Sau gặp Phật, Ngài xuất gia, tu theo hạnh
Bồ tát. Đó là hình ảnh thật có lịch sử rõ ràng ở Nam Thiên Trúc.
Khảo nhiều kinh, trước hết tôi dẫn kinh A-hàm. Trường A-hàm có nói
thế này: Đức Phật dạy rằng sau này ở cõi Ta-bà, tâm con người càng ngày
càng ác, mười nghiệp thiện họ bỏ qua mà luôn tạo nhiều nghiệp ác. Cho
đến bao giờ họ quí mười nghiệp ác cũng như thuở xưa quí trọng mười
nghiệp thiện và tuổi thọ chúng sanh giảm xuống đến cuối cùng còn mười
tuổi thì đức Phật Di-lặc ra đời. Khi nghiệp ác nhiều thì tuổi thọ theo
đó mà giảm. Bao giờ tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, cũng như bây
giờ tuổi thọ chúng ta coi là một trăm tuổi vậy, thì lúc đó thế giới sẽ
có những tai nạn đao binh. Đao binh ở đây không phải là người ta giết
chết nhau, mà chính những lá cây cỏ cũng có thể biến thành gươm bén.
Chúng ta bị chặt bị cắt mà chết. Qua tai nạn đao binh đó tới tai nạn tật
dịch tức là đau ốm bệnh dịch. Vì vậy đại đa số dân chúng trên thế giới
này chết mòn chỉ còn sót lại một ít người tu hành ẩn trên núi trên non.
Họ còn sống thừa lại. Khi họ sống qua cái thời gian chết đó rồi, họ tìm
thấy bà con dòng họ của họ chết hết, chỉ còn sót lại lưa thưa vài người,
lúc đó, họ mới biết rằng từ hồi đó tới giờ dòng họ mình làm điều ác,
bây giờ mới bị quả báo chết như vậy. Cho nên họ nỗ lực tu mười điều
thiện lại. Khi bắt đầu tu mười điều lành thì tuổi thọ họ tăng, cứ một
trăm năm thì tăng lên một tuổi. Đến bao giờ tuổi thọ lên đến sáu mươi
bốn ngàn tuổi, lúc đó dân chúng đông đảo thuần hậu, làm lành thì Phật ra
đời ở dưới cội cây Long Hoa gọi là hội Long Hoa. Như vậy quí vị tưởng
tượng bây giờ chúng ta đang ở cái mức tám mươi tuổi thọ mà cứ một trăm
năm giảm xuống một tuổi, giảm tới còn mười tuổi, rồi tăng lên cho đến
sáu mươi bốn ngàn tuổi, thì thời gian từ đây cho tới đó còn bao xa? Theo
sách Phật thì khi Phật Thích-ca nhập diệt thì đức Di-lặc cũng nhập
Niết-bàn. Ngài sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội điện sống bốn
ngàn tuổi. Sau đó Ngài mới sanh trong thế giới Ta-bà, thành đạo dưới cội
cây Long Hoa giáo hóa chúng sanh kế tiếp đức Phật Thích ca. Vậy tưởng
chừng bao lâu Phật Di Lặc ra đời? Vậy mà có một số người nghe trong kinh
nói đức Phật Di Lặc ra đời nghe nói hội Long Hoa, rồi họ bịa ra ít bữa
đức Phật Di Lặc ra đời, vài bữa hội Long Hoa đến v.v… Đó là những tà
thuyết để lừa bịp những Phật tử học mà không hiểu Phật pháp, lại có
người tự xưng là Phật Di Lặc hoặc tự cổ động rằng mình sẽ chờ đón đức
Phật Di Lặc. Quí vị xét, nếu chúng ta tin đức Phật Di Lặc chỉ còn một
phen bổ xứ lên cung trời Đâu-suất, sau này hạ sanh ở thế giới Ta-bà
thành Phật, nếu tin lời Phật Thích-ca nói trong kinh thì chúng ta phải
tin luôn thời gian đã định ngày Phật ra đời. Chúng ta tin đức Phật Di
Lặc, có hội Long Hoa mà quên thời gian đó. Rồi cứ hờ hững, cứ nghe ai
nói đức Phật Di Lặc ra đời thì vội vàng chạy tới đảnh lễ mong cầu v.v…
Đó là cái sai lầm quá lớn để những tà thuyết lợi dụng danh từ Phật giáo
tuyên truyền mê tín dị đoan. Người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều
đó. Đó là tôi khảo về lịch sử từ những bộ kinh gọi là Di Lặc thượng
sanh, Di Lặc hạ sanh và Di Lặc bản nguyện. Những kinh đó đều do đức Phật
Thích-ca nói ra. Coi kỹ những bộ kinh đó rồi, chúng ta biết rõ lịch sử
đức Di Lặc, vậy đừng nghe lời của một số người bàn tán, dựng lên những
điều sai lầm. Đó là chúng tôi nói về đức Phật Di Lặc ở Ấn Độ.
Bây giờ nói tới đức Phật Di Lặc ở Trung Hoa. Đức Phật Di Lặc sang
Trung Hoa hồi lúc nào? Thật ra nếu căn cứ theo hình tượng chúng ta thờ
thì không có hình tượng của đức Bồ-tát ở Ấn Độ, mà là hình tượng đức Di
Lặc ở Trung Hoa. Đó là một ông già bụng phệ lùn mập, như vậy là đức Di
Lặc ở Trung Hoa chớ không phải ở Ấn Độ. Di-lặc ở Trung Hoa ra đời lúc
nào? Điều đó chúng ta phải khảo lại. Có nhiều thuyết nói đức Di Lặc hiện
giờ đang ở trên cung trời Đâu-suất. Ngài chưa tới thời kỳ giáo hóa
chúng sanh ở thế giới này. Nhưng với tinh thần người hiểu Phật giáo Đại
thừa thì Bồ-tát có báo thân, ứng thân và nhất là hóa thân. Tùy căn cơ
chúng sanh mà các ngài ứng hóa vô lượng thân không thể lường được. Cho
nên sử Trung Hoa có kể mà tôi nhớ đại khái có hai hóa thân của Bồ tát Di
Lặc. Một hóa thân gọi là Ngài Tăng Can ở gần chùa Quốc Thanh đời nhà
Tùy, tức là ở khoảng thế kỷ thứ sáu. Nói rằng Ngài có một cái am gần
chùa Quốc Thanh và đi thuyết giáo nơi này nơi nọ. Có lắm lúc Ngài cỡi
cọp về, chúng trong chùa thấy hoảng kinh. Khi đến khi đi không ai lường
được. Có lần Ngài ôm về một đứa bé gởi trong chùa đặt tên là Thập Đắc.
Thỉnh thoảng có một ông ăn mặc rách rưới ở trong núi lạnh đi ra, tuyết
phủ đầy mình gọi là Hàn Sơn. Hàn Sơn và Thập Đắc được coi như là hai
người ăn mày trong chùa. Các ngài là hai vị hóa ra ăn mặc rách rưới ngủ
ngoài hành lang. Tới bữa ăn thì đợi chúng ăn xong hết, còn những thừa
cặn gì đó ngài trút lại dùng. Có khi các ngài còn lượm cơm dưới sàn
nước, rửa lại mà ăn. Chúng trong chùa coi các ngài như hai kẻ ăn mày
không kém, nhưng mà có cái lạ là nhiều khi hai ngài hứng làm thơ. Những
bài thơ của các ngài không ai hiểu gì hết. Một hôm bất chợt, sau một bữa
trưa chúng tăng nghỉ hết, hai ngài trèo lên cổ của ngài Văn-thù và ngài
Phổ Hiền ngồi. Một ông tăng ở dưới tăng xá thình lình đi lên, thấy như
vậy ngạc nhiên quá mới chạy đi báo cho ông trụ trì hay. Ông trụ trì lôi
hai ông xuống rầy quở đủ thứ hết. Hai vị đó là bạn thân của ngài Tăng
Can. Ngài Tăng Can tịch rồi. Một hôm ông chủ huyện có bệnh nan y, ông
nằm chiêm bao thấy ngài Tăng Can tự xưng là đức Di Lặc bảo ông đến đảnh
lễ Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và chỉ cho ông một phương thuốc uống hết
bệnh. Muốn đảnh lễ hai vị đó thì vào chùa Quốc Thanh hỏi tên Hàn Sơn,
Thập Đắc vì đó là Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền. Ông huyện đó theo lời chỉ
tìm thuốc uống lành bệnh, mới tìm đến chùa Quốc Thanh để gặp hai vị Hàn
Sơn, Thập Đắc. Khi đó ông trụ trì thấy ông huyện tới hỏi hai chú ăn mày
trong chùa thì ông ngại quá không muốn kêu. Nhưng ông huyện cho biết ông
mong mỏi gặp hai vị đó. Buộc lòng ông trụ trì mời hai vị ra. Hai vị nắm
tay đi ra. Vừa thấy hai vị ông huyện quì mọp xuống lạy. Hai vị mới cười
và nói: “Cái lão Tăng Can bày đặt làm cho ta phải bại lộ rồi.” Hai
Ngài, cõng nhau chạy tuốt vô rừng mất. Do đó mới biết hai vị là hiện
thân của Văn-thù, Phổ Hiền, còn ngài Tăng Can là hiện thân của đức Di
Lặc. Nhưng biết thì chuyện đã rồi, không ai ngờ để đảnh lễ các ngài được
hết.
Một vị khác vào thế kỷ thứ mười đời Ngũ đại ở Trung Hoa gọi là Bố Đại
Hòa thượng. Vị đó gần gũi chúng ta nhất, tức là ông già quảy cái đãy to
tướng, mặt tròn, miệng cười, bụng phệ, áo phạch ngực. Ngài Bố Đại Hòa
thượng lúc nào cũng quảy một túi lớn, đi trong nhân gian gặp chỗ nào có
cái gì, Ngài xin bỏ vô đãy. Đến chỗ có con nít đông, Ngài ngồi xuống
phân chia cho chúng nó, vui chơi với chúng nó. Cho nên người ta thấy
miệng Ngài lúc nào cũng cười vui vẻ thích thú. Đó là hình ảnh đức Di
Lặc, một vị Hòa thượng bụng lớn, mập, miệng cười toe toét.
Tại sao gọi ngài Bố Đại Hòa thượng là Di Lặc?
Nói rằng Ngài đi xin như vậy có nhiều chuyện xảy ra cho Ngài lạ lắm.
Trong sử có nói đủ, ở đây tôi chỉ lược vài điểm thiết yếu cho quí vị
biết mà thôi. Ngài đi xin và sống một thời gian như vậy ở tỉnh Minh
Châu. Tại đó Ngài lang thang nơi này nơi nọ. Thời đó là thời Thiền Tông
còn thạnh hành ở Trung Hoa. Một hôm Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi:
“Đại ý Phật pháp thế nào?” Đang quảy bị trên vai Ngài liền để xuống. Vị
Hòa thượng hỏi thêm: “Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên?” Ngài
mang cái bị để lên vai và đi. Đó là câu trả lời của Ngài.
Trong lịch sử Thiền tông, cũng câu hỏi đó, Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền đem
ra hỏi Tổ Hoàng Bá liền bị ăn gậy. Ở đây ngài Bố Đại Hòa thượng đối với
câu hỏi đó, Ngài chỉ buông cái bị xuống đất. Hỏi có con đường tiến lên
nữa không, Ngài mang bị lên vai đi tuốt. Những hình ảnh đó là thế nào?
Như vậy mà người ta vẫn chưa biết thế nào, tung tích ra sao? Nhưng một
hôm Ngài sắp thị tịch, mới trở về chùa. Ngồi bên bàn thạch Ngài làm một
bài kệ rồi tịch. Bài kệ đó như thế này:
Di Lặc chân Di Lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức
Ngài nói rằng: Di Lặc thật Di Lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường
thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết. Nhờ bài kệ đó mà
người ta mới biết Bố Đại Hòa thượng là hóa thân của đức Di Lặc. Vì vậy
muốn vẽ hình đức Di Lặc người ta liền vẽ hình Bố Đại Hòa thượng. Đó là
đức Di Lặc ở Trung Hoa. Bây giờ chúng ta thờ phượng là thờ hình ảnh đức
Phật đó. Chớ đức Bồ-tát Di Lặc ở Ấn Độ thì mình không biết. Còn đức Di
Lặc ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa. Chúng ta chỉ
biết Di Lặc hóa thân ở Trung Hoa với một hình tượng là Bố Đại Hòa
thượng. Đó là phần khảo về lịch sử.
Đây mới nói về ý nghĩa đức Phật Di Lặc, ngày vía mùng một Tết. Ngày
vía này là ngày vía gì của đức Di Lặc. Ở Ấn Độ thì không biết ngày nào, ở
Trung Hoa hóa thân hai, ba đời, cũng không biết ngày nào. Nói ở cung
trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa.
Như vậy ngày vía Phật Di Lặc là ngày vía gì?
Chúng ta đừng nghĩ rằng phải đợi có ngày sanh ngày tịch mới gọi là
ngày vía. Đây là ý nghĩa thâm sâu trong nhà Thiền. Các Tổ đã khéo léo
chọn ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di Lặc. Chúng ta lạy Ngài
với câu: Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. Chư Tổ
thấy thế gian xem ngày mùng một Tết là ngày định đoạt của suốt một năm.
Ngày này mọi người dè dặt từng lời nói, dè dặt từng hành động, dè dặt
từng tên người đến thăm mình, dè dặt đủ thứ chuyện. Như vậy ngày mùng
một Tết là ngày đầy đủ ý nghĩa của tương lai mình. Trong nhà chùa ngày
mùng một Tết có ý nghĩa gì? Các Tổ lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía
đức Phật Di Lặc cũng là ngày tương lai rực rỡ, ngày tương lai sẽ thành
Phật. Sáng mồng một chúng ta lạy Phật, lạy vía đức Di Lặc, là đặt hết cả
niềm hy vọng vào tương lai, hy vọng chúng ta sẽ thành Phật. Không hy
vọng giàu có sang trọng gì mà chỉ hy vọng sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa
sâu đậm nhất của ngày mùng một Tết để chúng ta lễ đức Phật Di Lặc.
Ý nghĩa thứ hai là hình ảnh vui
cười của đức Di Lặc. Đó là hình ảnh hạnh phúc. Vì vậy có chỗ thay vì để
danh từ Di Lặc lại để một con người hạnh phúc.
Tại sao là con người hạnh phúc? Tới đây tôi bước sang giai đoạn sâu của Thiền tông.
Hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Ngài quăng cái bị xuống mà không trả lời gì hết.
Hỏi: Có con đường tiến lên không?
- Ngài quảy bị lên vai mà đi.
Đại ý Phật pháp không có gì lạ. Nói thẳng e quí vị phiền, mà không nói e cho rằng giấu giếm.
Đại ý Phật pháp chỉ có một chữ xả là được. Chấp tức là chấp mình chấp
người nhân, ngã, Phật pháp, quyền thế, danh vọng v.v… Như vậy cái mà
buông tất cả đó là đại ý Phật pháp. Nói như vậy đó e quí vị khó hiểu.
Tôi nói câu chuyện hơi bình dân một chút mà không kém quan trọng. Tổ
Hoàng Bá thấy Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, một vị Thiền sư cao nhất trong nhà
Thiền, giữa quãng đời Đường. Ngài dạy rằng, chỉ cần có một hạnh bố thí
là đầy đủ tất cả. Bố thí là cho món này món kia, tức xả hay buông bỏ.
Chỉ có một hạnh xả là đầy đủ tất cả. Nói về hạnh tu Sư thúc, Sư bá mình,
Ngài phê bình rằng: Trong hàng đệ tử của Mã Tổ, trên tám mươi vị Thiện
tri thức, nhưng mà khi nói đến người tiêu chảy, hay nói quê mùa hơn một
chút là nếu nói đến con người ỉa chảy, thì chỉ có Hòa thượng Qui Tông là
con người ỉa chảy đầy đất. Nói đến ỉa chảy quí vị đừng nghĩ theo lối
quê mùa của mình, đó là xả tất cả. Chỉ có Hòa thượng Qui Tông là con
người xả được tất cả. Con người xả là con người đáng quí hơn hết.
Như vậy quí vị thấy rõ ràng xả là một pháp khiến cho người đạt đến
viên mãn trong đạo, nếu nói theo Thiền tông. Vì vậy sau khi Ngài buông
cái túi xuống rồi, hỏi còn có gì nữa không thì, Ngài quảy túi lên vai.
Tới đó đừng tưởng rằng hết rồi, mình tưởng không còn gì nữa. Chính buông
hết rồi, mình mới được một quảy lên vai tự tại. Cho nên nhà chùa có câu
“Bỏ tất cả là được tất cả”. Nhưng nói bỏ tất cả để được tất cả thì mình
còn tham quá. Bây giờ chỉ cần bỏ tất cả vậy là đủ rồi. Chính cái hạnh
xả đó là chỗ rất sâu và đưa chúng ta tới chỗ cao siêu của người giải
thoát. Vì vậy trong nhà Thiền tông nói ta không có một pháp dạy người mà
chỉ tùy phương tiện nhổ đinh tháo chốt thôi. Nhổ đinh tháo chốt là xả,
là phá chấp. Xả được là xong việc.
Đến đây tôi đi sang giáo lý để quí vị dễ thấy dễ tu hơn. Nói đến xả
là nói đến hạnh phúc cho nên quí vị nghe danh từ thường dùng nhất là Hỷ
Xả. Hai cái đó cái nào là nhân cái nào là quả. Có thể nói hỷ là nhân, xả
là quả, cũng có thể nói ngược lại xả là nhân hỷ là quả. Tại sao vậy?
Như hằng ngày có vị nào làm phật lòng mình một chút khiến mình bực bội.
Khi bực bội thì không vui. Giờ đây người đó xin lỗi mình, mình liền vui
vẻ mới tha được. Còn giận thì không tha được. Trường hợp hỷ là nhân, xả
là quả. Vui vẻ mà tha thứ cho họ, như vậy mới là ổn. Giận không thể tha
thứ được. Trường hợp đó hỷ là nhân. Bởi vì mình vui nên mình mới xả, mới
được cái quả xả. Nhưng ở đây nói con người hạnh phúc đó phần lớn xả là
nhân hỷ là quả. Bởi vì chúng ta có xả được chúng ta mới vui. Nếu chúng
ta không xả được thì chúng ta không bao giờ vui được. Tôi nói một việc
hết sức là tầm thường, như trong gia đình quí đạo hữu, người chồng làm
phật ý người vợ, trong lúc phật ý thấy nhau có vui không? Không nói
chuyện nhau, không nhìn mặt nhau. Bao giờ xả được thì lúc đó mới vui vẻ
nói chuyện được. Như vậy trường hợp đó do xả mà được vui. Nếu không xả
thì không vui. Đó là thí dụ nhỏ, tôi thí dụ rộng hơn. Trường hợp chúng
ta đối với người ngoài đời hay bè bạn, nếu họ có hành động hiếp mình
hoặc có lời nói cao hơn mình. Lúc đó mình làm sao? Mình về mình có an ổn
được không? Không vui đó là tại sao? Tại nhớ ông đó nói gác mình, hoặc
ăn hiếp mình, ông ỷ mạnh hiếp yếu. Khi nghĩ như vậy thì về nhà ngủ không
được, lăn lộn hoài nằm không yên. Muốn được ngủ yên phải làm sao? Nếu
mình còn nghĩ rằng người ta ăn hiếp mình, người ta gác mình. Lúc đó mình
có cảm thấy vui vẻ hạnh phúc hay không? Chắc không bao giờ có hạnh phúc
được hết. Lúc đó mình sống ở trong phiền não ở trong tam độc chứ không
có hạnh phúc. Bây giờ người nào mà bỏ được cái đó thật là hạnh phúc. Vì
vậy hồi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài đi khất thực ở vùng
Bà-la-môn, vị lãnh tụ Bà-la-môn nổi tức đi theo Ngài. Ngài đi trước ông
đi theo sau mắng. Ông mắng bao nhiêu mắng Ngài cứ chậm rãi đi. Đi tới
ngã tư đường Ngài trải tọa cụ ngồi. Ông chạy tới trước mặt hỏi: “Ngài
thua tôi chưa?” Ngài liền đáp bằng một bài kệ:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ không yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ
Hơn người thì người tức nên oán. Mà người ta oán mình có vui hay
không? Thua người về ngủ không được nằm lăn qua trở lại hoài. Như vậy cả
hai đều là cội gốc của đau khổ, của phiền não. Thành ra cái hơn cái
thua hai cái bỏ phăng đi thì người đó được an ổn ngủ. Tối đến thì nằm
xuôi cẳng ngủ khò, không lo không tính, không phiền muộn gì hết.
Đó là người hạnh phúc. Hạnh phúc từ đâu mà có? Từ cái xả mà có, chứ
chúng ta cứ ôm ấp phiền não trong lòng hoài thì làm sao mà hạnh phúc
được. Quí vị nhớ, nếu trong gia đình chúng ta không xả được cứ giận vợ
giận con hoài thì cũng không vui. Ra ngoài xã hội cứ nhớ người này ăn
hiếp mình, người kia nói gác mình, người nọ khinh mình, gì gì đó, người
ôm trong lòng cả bụng như vậy thì người đó lúc nào cũng đau khổ, lúc nào
cũng là phiền não hết. Chỉ người nào nghĩ nói gác mình như gió thổi
ngoài tai, rồi ngủ khò không thèm nhớ, thì đó là hạnh phúc chớ gì. Người
nào mà trong nhà cũng như ở ngoài gặp cái gì phật ý, xem đó như là lỡ
lầm của người không gì quan trọng hết, không có gì phải phiền muộn,
người được như vậy mới là con người hạnh phúc.
Đầu năm, chúng ta quen chúc cho nhau, một năm đầy hạnh phúc. Chúc
hạnh phúc mà cứ phiền giận hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Như vậy
chỉ là một cái chúc suông.
Ở đây tôi không chúc gì cho quí vị hết mà chỉ khuyên: “Năm nay tập
tiêu chảy kha khá một chút” chừng nào quí vị tiêu chảy được như ngài Qui
Tông lúc đó quí vị sẽ tràn trề hạnh phúc.
Đó là tôi chỉ nói hạnh phúc nho nhỏ của thế gian. Còn nếu nói đến
hạnh phúc cao siêu hơn nữa, tức là đạt đến cứu kính giải thoát thì trong
kinh cũng dạy chúng ta đừng chấp cảnh, chấp người, đừng chấp tâm, đừng
chấp pháp. Nếu chúng ta buông hết những cái chấp đó thì Niết-bàn hiện
tại, vĩnh viễn hạnh phúc. Không chấp tức là xả. Xả được mới thật là vĩnh
viễn hạnh phúc. Vì vậy nói tới đức Di-lặc là nói tới hạnh hỷ xả nên
người Trung Hoa tượng trưng Ngài bằng hình ảnh ngài Bố Đại Hòa thượng,
một hình ảnh vui vẻ tươi cười lúc nào cũng sẵn sàng hỷ xả.
Vậy năm nay quí vị lễ đức Phật Di Lặc là nhớ đến hạnh hỷ xả của Ngài,
nhớ đến cái miệng vui cười hạnh phúc của Ngài. Nếu quí vị sống được cái
hạnh phúc đó thì quí vị chẳng những hạnh phúc ở hiện tại mà hạnh phúc
vĩnh viễn của người vào Niết-bàn.
Đó là ý nghĩa sự tích đức Phật Di Lặc mà hôm nay chúng tôi nói.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Theo" http://loiphatday.org/su-tich-duc-phat-di-lac"
Công dụng của đá Thạch Anh Tím bạn đã biết chưa?
ReplyDeleteNhấp vào xem chi tiết: Công dụng của đá Thạch Anh Tím bạn đã biết chưa?
Hoặc
Click xem chi tiết: Cong dung cua da thach anh tim